Huyết Trăng Núi Tăm - CHƯƠNG 11: ĐỨA TRẺ MANG DẤU ẤN TRĂNG ĐEN

Cập nhật lúc: 2025-11-08 10:58:23
Lượt xem: 0

Mời Quý độc giả CLICK vào liên kết hoặc ảnh bên dưới

mở ứng dụng Shopee để tiếp tục đọc toàn bộ chương truyện!

https://s.shopee.vn/9KUV8bsqzA

MonkeyD và đội ngũ Editor xin chân thành cảm ơn!

Hai mươi năm đêm trăng cuối cùng, ngôi làng bên hồ Trăng Đen đổi tên thành Thủy Minh thôn.

Người đời kể rằng kể từ khi quan Hàn Ngọc Sơn hiến để giải lời nguyền, nước hồ trở nên trong vắt như pha lê, cá tôm sinh sôi, mùa màng mùa, còn ai mất tích.

Người làng lập miếu nhỏ bên bờ, gọi là Miếu Sơn Quân, ngày ngày khói hương dứt. Ai ngang qua cũng cúi đầu vái ba vái, gọi ông bằng tên kính cẩn:

“Hàn Đại Nhân – trấn hồn giữ mạch trời đất.”

Thế nhưng, sự bình yên kéo dài hai thập niên … chỉ là tấm màn sương mỏng che phủ thứ u minh đang đợi ngày thức dậy.

Đêm , mưa như trút nước.

Gió nổi, sấm sét đan chéo bầu trời, rạch ngang những đỉnh núi Tăm u tối.

Trong căn nhà nhỏ ở cuối thôn, một phụ nữ đang trở .

Người đỡ đẻ, bà mụ Giang, run rẩy niệm Phật ngừng. Mỗi khi chớp sáng lóe lên, bóng phụ nữ hiện rõ – mặt tái xanh, tóc ướt sũng, đôi mắt trợn ngược trong cơn đau quặn thắt.

Tiếng sấm nổ vang như tiếng trống tế thần, và ngay khi đứa trẻ cất tiếng đầu tiên, sét đ.á.n.h trúng mặt hồ.

Mọi trong thôn đều kể rằng: trong khoảnh khắc , nước hồ vốn trong, bỗng đen kịt như mực.

Bà mụ Giang hoảng hồn đứa trẻ tay – da nó trắng bệch như sáp, đôi môi thâm , và ngay giữa trán, một vết bớt hình trăng khuyết đen sẫm, lạnh lẽo như khắc sâu da.

“Trời ơi... đứa trẻ ... là điềm chẳng lành ...!”

, dù kiệt sức, vẫn mỉm yếu ớt:

“Nó... là con ... tên nó... gọi là Hàn Minh.”

Hàn Minh lớn lên giữa lời đồn và nỗi sợ.

Bọn trẻ trong thôn ai dám gần. Mỗi khi nó qua, gió bỗng lặng, lũ ch.ó tru rống, còn đèn dầu trong nhà tự nhiên tắt phụt.

Năm lên bảy, nó , tự học nhờ những cuốn sách cũ trong miếu Sơn Quân.

Người bảo nó thể những chữ bia cổ mà chẳng ai hiểu nổi.

Nó thường đến bên hồ, hàng giờ xuống mặt nước, thì thầm những lời chẳng ai .

Một , bà mụ Giang – đỡ đẻ năm – bắt gặp thằng bé giữa đêm, mắt nhắm nghiền, tay chạm mặt hồ.

Nước xung quanh sôi lên, bọt trắng nổi đầy mặt.

Khi bà hoảng hốt chạy , nó chỉ đầu, giọng đều đều như kẻ mộng du:

“Dưới hồ c.h.ế.t … Họ vẫn đang hát… nhưng ai thấy.”

Từ hôm đó, bà mụ đổ bệnh, sảng mãi, miệng chỉ lặp :

“Trăng đen… trăng đen sắp lên…”

Mười hai năm , một nhà sư hành khất từ phương Bắc ghé qua làng.

Ông đầu bạc, khoác áo cà sa vá chằng vá đụp, chỉ mang theo một chuỗi tràng hạt bằng gỗ đen và chiếc chuông nhỏ.

Ông miếu Sơn Quân hồi lâu, khẽ:

“Âm khí nơi đây, chẳng tiêu tan mà chỉ tạm ngủ. Người trấn hồn xưa hy sinh, nhưng hồn oán chẳng rời. Sẽ kẻ gánh … kẻ hẳn sinh .”

Dân làng thì hãi, hỏi rằng thể hóa giải chăng.

Nhà sư lắc đầu:

“Một khi dấu ấn trăng đen tái sinh, chỉ m.á.u của mang ấn mới phong ấn hồ nữa. nếu chống mệnh… thiên hạ sẽ chìm trong đêm đen.”

Từ đó, chẳng ai dám đến gần Hàn Minh nữa.

Đứa trẻ sống cô độc, chỉ trò chuyện với chính bóng trong nước.

Đêm rằm tháng tám năm Hàn Minh mười bảy tuổi, làng mở hội trăng đầu tiên hai mươi năm.

Trẻ con thắp đèn, lớn ca hát, tiếng trống múa lân rộn ràng bên hồ.

Hàn Minh cũng mặt, xa xa, tay cầm chiếc đèn giấy hình trăng.

Khi trăng lên đỉnh, gió lạnh bỗng thổi qua. Mặt nước hồ dậy sóng, và bóng trăng nước chuyển màu đen.

Tiếng đàn sáo tắt lịm, hoảng sợ.

Một cụ già run rẩy la lên:

“Trăng đen… đến !”

Hàn Minh ngẩng đầu. Trong đôi mắt , ánh trăng phản chiếu như hai hố sâu vô tận.

Cậu lẩm bẩm:

“Họ gọi … bảo trở về...”

Giây , nước hồ b.ắ.n tung, hàng trăm bàn tay trắng bệch thò lên, nắm lấy chân những gần mép nước.

Tiếng hét vang dậy khắp thôn, m.á.u hòa cùng ánh trăng đen thành một vòng xoáy lớn.

Người kể rằng, trong đêm , chỉ một Hàn Minh hề kéo xuống.

[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn - https://monkeyd.net.vn/huyet-trang-nui-tam/chuong-11-dua-tre-mang-dau-an-trang-den.html.]

Cậu giữa bờ hồ, áo dính bụi, mắt dõi theo trăng, miệng khẽ :

“Ta nhớ … tất cả .”

Từ đêm đó, Hàn Minh chuyện với ai nữa.

Cậu chỉ đến miếu Sơn Quân mỗi đêm, thắp một ngọn đèn nhỏ và thứ ngôn ngữ cổ bia đá mà chẳng ai hiểu.

Rồi một hôm, mộng thấy một đàn ông mặc quan phục, giữa hồ, mỉm hiền hòa.

“Ngươi là … còn là ngươi.”

“Ngươi là… Hàn Ngọc Sơn?” – Minh hỏi.

“Phải. nghiệp dứt. Máu của hóa hồ, linh hồn của giữ yên dân, song… tà khí tan. Giờ ngươi chọn: hoặc kế thừa , hoặc giải thoát tất cả.”

“Giải thoát… bằng cách nào?”

“Đổ m.á.u ngươi xuống hồ, dùng linh hồn mộc.”

Minh lắc đầu:

“Ta c.h.ế.t.”

“Nếu ngươi sống, ngàn linh hồn sẽ chẳng yên. Cả thôn, cả đất sẽ hóa mồ chôn.”

“Ngươi dối!”

Quan phục trong mộng nhẹ, tan sương, chỉ để tiếng vang vọng:

“Kẻ trốn nghiệp… cuối cùng vẫn trả giá.”

Bảy đêm hội trăng, tiếng gió hú liên hồi.

Mây đen kéo đến che khuất ánh sáng, hồ bắt đầu đổi màu.

Người trong thôn tìm đến, ai cũng quỳ miếu cầu khấn.

Trong gian giữa, Hàn Minh bất động, mặt là bức họa chân dung Hàn Ngọc Sơn – tổ tiên mà từng gặp.

Bức họa chảy máu.

Từng dòng m.á.u đỏ tươi rỉ từ mắt, mũi, miệng, nhỏ xuống nền đất.

Cậu cảm thấy một lực vô hình kéo dậy, bước bờ hồ.

Mưa bắt đầu rơi.

Dưới mặt nước, hàng vạn bóng nhấp nhô, gọi tên trong âm điệu nghẹn ngào:

“Minh… trả … m.á.u của chúng …”

Cậu quỳ xuống, tay run run đặt lên mặt nước lạnh buốt:

“Nếu kế thừa… thì hãy để kết thúc.”

Ngay khi lời dứt, vết bớt trăng đen trán sáng rực.

Mặt hồ gầm lên như thú dữ.

Một luồng khí đen cuốn xuống đáy, ai kịp ngăn.

Khi dân làng tìm tới, hồ trở nên phẳng lặng như từng nổi sóng.

Chỉ còn trăng thật cao, soi bóng xuống mặt nước trong veo.

Bỗng, từ giữa hồ, một luồng sáng trắng vút lên, rọi khắp thôn.

Tiếng hát xưa vang – giọng của nữ nhân từng hiến tế:

“Người mang ấn trăng đen… trả xong nợ máu…”

Mưa tạnh.

Trăng sáng trở , còn đen, chỉ còn ánh bạc dịu hiền.

Sáng hôm , thấy bờ hồ, cỏ mọc xanh rì, còn miếu Sơn Quân bao phủ bởi một lớp ánh sáng mờ.

Trên tấm bia cũ, tự nhiên xuất hiện thêm một hàng chữ nhỏ:

“Hàn Minh – kẻ gánh nghiệp, giải trăng.”

Nhiều năm , khách hành hương ngang qua Thủy Minh thôn đều kể truyền thuyết .

Họ bảo, mỗi khi trăng tròn, nếu kỹ mặt hồ, sẽ thấy hai bóng — một già, một trẻ — song song mặt nước, về phía miếu, gì.

Trẻ con trong làng mỗi khi ngang đều dạy khấn:

“Tạ ơn giữ hồ, nguyện cho trăng sáng mãi.”

Và kể từ đó, hồ Trăng Đen biến mất khỏi bản đồ, chỉ còn trong lời kể của dân gian.

Người gọi nơi Hồ Trăng Giải Oan — nơi cuối cùng kết thúc oan hồn của triều cũ.

già vẫn khẽ những đêm sương mù dày:

“Trăng đen c.h.ế.t… nó chỉ đang chờ kế tiếp.”

Loading...