Tôi bị dọa đến phát khiếp, vừa định hét lên thì bà nội đã bịt miệng tôi lại, ra hiệu cho tôi đừng phát ra tiếng.
Chú út tôi có bệnh mộng du, tôi từng thấy chú đi trong mơ, nhiều nhất cũng chỉ quanh quẩn đi vài vòng trong phòng, chưa bao giờ như hôm nay – trong tay lại còn cầm theo dao.
Ông nội tôi cũng tỉnh dậy, bắt đầu gọi tên chú út:
– “Xuân Sơn à ——”
Cái điệu gọi ấy, mỗi lần gọi lại càng to hơn:
– “Xuân Sơn à, trời sáng rồi, gà sắp gáy rồi ——”
Ông tôi gọi vài tiếng như vậy, chú út liền ném con d.a.o xuống đất, khập khiễng đi về phía phòng Đông. Đến khi chú bước vào phòng, ông mới thôi không gọi nữa.
Ông bảo:
– Ngủ tiếp đi.
Bà nội thì nhíu chặt mày:
– Ông ơi, tôi thấy Xuân Sơn có gì đó không ổn.
Ông tôi hỏi:
– Không ổn chỗ nào?
– Dáng đi của nó… giống y hệt cái thằng què hôm đó. – Giọng bà tôi run rẩy.
Sắc mặt ông tôi lập tức thay đổi, giận dữ quát lớn:
– Nói bậy! Suốt ngày nghi thần nghi quỷ, đầu óc toàn suy nghĩ linh tinh! Có chuyện gì bà cũng tin được hả?
Thấy ông nổi giận, bà chỉ dám nói nhỏ:
– Hay là mai mình đi xem thử… thu dọn cho cái thằng què ấy một cái xác, dù sao chuyện này mình cũng có phần sai…
Mặt ông tối sầm lại, gằn giọng:
– Sai cái gì? Thằng què c.h.ế.t tiệt đó nhất định phải chen ngang, tự tìm đường chết, liên quan gì đến nhà mình? Đừng có mà chuốc họa vào thân!
Nói xong còn lườm bà tôi một cái, như để cảnh cáo bà câm miệng.
Bà nội thở dài, không nói thêm gì nữa.
Sáng sớm hôm sau, trong làng đã truyền tin: chiếc xe khách hôm qua có năm người chết, bốn trong số đó là người trong làng, t.h.i t.h.ể đều đã có người nhận, chỉ còn lại một cái xác chưa có ai tới nhận. Thi thể được đặt tạm trong ngôi miếu Quan Âm ở đầu làng, chờ người nhà đến đón.
Ông nội nói:
– Xuân Sơn, ăn nhanh lên, lão Dương tam mất rồi, hai ông cháu mình qua đó phụ giúp.
Dương Tam là người làng bên, mới hơn năm mươi, quen biết với ông nội tôi.
Chú út vừa ăn vừa đáp:
– Vâng.
Bà nội nhíu mày, như đang có tâm sự, liền kiếm cớ sai chú ra ngoài:
– Xuân Sơn, con ra kho lấy cái đĩa mang vào.
Chú út vừa ra khỏi, trong nhà chỉ còn lại ba người chúng tôi.
Bà nội thì thào:
– Ông à, cái thằng què đó c.h.ế.t mà không ai lo liệu, hay là mình giúp nó chôn cất đi?
Ông nội siết chặt nắm tay, đập mạnh xuống bàn:
– Bà có thôi đi không? Cái thằng què ấy đáng đời c.h.ế.t yểu, liên quan gì đến nhà mình? Đừng có mê tín nữa!
Nói xong, ông ra sân. Chú út mang đĩa về nhà, rồi cùng ông nội rời đi.
Nhà chỉ còn lại tôi và bà nội.
Bà vẫn không từ bỏ, dắt tôi tới miếu Quan Âm.
Miếu Quan Âm ở đầu làng đã hoang phế mấy chục năm, rất lớn, cửa gỗ cũ kêu két két khi đẩy ra.
Rõ ràng đang là giữa trưa, thế mà bên trong lạnh lẽo lạ thường, gió buốt luồn vào áo.
Vừa bước vào, tôi thấy một t.h.i t.h.ể nằm đó, được phủ tấm vải trắng. Nhưng tấm vải lại quá ngắn, không che hết toàn bộ thân xác – hai bàn chân lộ ra ngoài.
Chân của người c.h.ế.t phù lên, tím bầm, mùi hôi thối nồng nặc.
Bà nội quỳ xuống bên cạnh xác, chắp tay khấn vái:
– Oan có đầu, nợ có chủ, xin ông tha cho Xuân Sơn, nó không biết gì hết...
Bà vừa dứt lời, một cơn gió lạnh thổi tới, cánh cửa gỗ két két rung lên không ngừng, tấm vải trắng đột nhiên bị cuốn bay lên.
Tôi theo phản xạ liếc qua – xác c.h.ế.t kia lại chính là… chú út tôi! Mắt mở to, c.h.ế.t không nhắm mắt.
---
Chương 4 – Hũ tro tàn
Khi tôi định nhìn lần nữa thì tấm vải đã rơi xuống, lại phủ lên mặt xác chết.
Bà nội vẫn nhắm mắt, lẩm bẩm khấn gì đó, hoàn toàn không nhìn thấy xác.
[Truyện được đăng tải duy nhất tại MonkeyD.net.vn - https://monkeyd.net.vn/ga-que/chuong-3-cai-bong-cua-ke-que.html.]
Tôi kéo tay áo bà, thì thào:
– Bà ơi, con thấy chú út…
Bà mở to mắt, vẻ mặt hoang mang:
– Chú út con?
Tôi chỉ vào t.h.i t.h.ể trên đất:
Trà Đá Dịch Quán
– Gió thổi bay vải lên, con thấy mặt chú ấy, chính là chú!
Mắt bà trợn tròn, cả người mềm nhũn ngồi bệt xuống, ánh mắt tràn đầy sợ hãi.
Bà nhìn chằm chằm vào tấm vải trắng:
– Con nói bậy! Chú con vẫn sống sờ sờ đấy thôi.
Tôi nói:
– Nếu bà không tin, thì mở vải ra xem đi.
Bà vịn lấy cột, gắng sức đứng dậy, nhìn tấm vải mấy lần nhưng không dám vén lên.
Từ miếu Quan Âm về, bà dẫn tôi về nhà. Bà lục dưới gầm tủ lấy ra một cái hộp sắt – bên trong là của cải và tiền bán lương thực của gia đình.
Bà rút ra một xấp tiền, cất lại hộp rồi nói:
– Tiểu Niên, bà lên thị trấn một chuyến, con ở nhà ngoan, đừng chạy lung tung.
Nói xong bà liền đi, nhà chỉ còn mình tôi.
Đến tối, ông nội và chú út trở về trước.
Ông hỏi:
– Bà mày đâu?
Tôi đáp:
– Lên thị trấn rồi ạ.
Chú út hỏi:
– Lên đó làm gì?
Ông cười:
– Hôm nọ dì Lý muốn mai mối cho mày, nói chờ mày về sẽ gặp mặt. Mẹ mày lên thị trấn chắc là đi mua quần áo cho mày.
Ông vừa dứt lời thì ngoài sân vang lên tiếng động – bà đã về.
Bà ôm trong lòng một cái hũ đen, xung quanh còn dán đầy bùa đỏ, trông rất kỳ lạ.
Ông hỏi:
– Sao giờ mới về? Tay ôm cái gì thế?
Bà đặt cái hũ lên bàn, đốt ba nén hương, quay sang chú út:
– Xuân Sơn, con quỳ xuống, lạy ba lạy.
Chú út ngơ ngác:
– Mẹ, sao lại phải lạy cái hũ này?
Bà nhíu mày, hạ giọng:
– Trong hũ là ân nhân của con. Nếu không phải Tôn Đại Cường cướp vé xe của con, người c.h.ế.t hôm ấy chính là con rồi. Mau lạy ba lạy.
Bà vừa nói xong, ông nội đã nổi cơn thịnh nộ, mở tủ lôi cái hộp sắt ra.
Bà nội nhíu mày, kéo tay chú út quỳ xuống.
Chưa kịp quỳ, ông đã ném cái hộp vào người bà, gầm lên:
– Ai cho bà lấy tiền? Số tiền đó để cưới vợ cho Xuân Sơn!
Bà đỏ hoe mắt, gào lên:
– Tôi là đang cứu mạng nó!
Chú út nói:
– Bố mẹ đừng cãi nữa, rốt cuộc là chuyện gì?
Bà bảo:
– Xuân Sơn, mau lạy ba lạy đi, lạy Tôn Đại Cường, nghe lời mẹ.
Bà kéo tay chú, định ép chú quỳ.
Ông nội đột ngột từ giường nhảy xuống, hét lớn:
– Tôi còn chưa chết! Sao lại phải lạy cái thằng què đó? Bà đúng là đầu heo!
Nói rồi, ông xách luôn cái hũ trên bàn, đập mạnh xuống đất – rầm một tiếng, hũ vỡ tan, tro cốt tung tóe.
Ông há miệng thở, hít phải mấy hơi tro, liền ho sặc sụa:
– Khụ khụ khụ!